Từ khi HIV mọc lần đầu vào năm 1920, cho đến nay chúng ta vẫn chưa tìm được kỹ thuật điều trị hiệu quả đối với loại vi rút này.
HIV đã luôn là một hung thần đối với những ai mắc phải nó. Trước năm 1996, người được chẩn đoán nhiễm HIV gần như đã ký sẵn bản án tử. Hiện nay, những nhà khoa học đã rất nhiều thành tựu trong việc tạo ra những liệu pháp điều trị tổng hợp, từ đó giúp làm chậm sự phát tác nhóm bệnh và giúp tuổi thọ bệnh nhân kéo dài hơn.
Đến giờ chúng ta vẫn chưa có một phương pháp điều trị nào giúp tiêu diệt hoàn toàn HIV.
Nhưng, thật sự tới giờ chúng ta vẫn chưa có một cách trị bệnh nào giúp tiêu diệt hoàn toàn HIV khỏi cơ thể một khi chúng đã xâm nhập thành công. Do đâu lại như thế? Bí mật nào gây nên sự lì lợm đáng sợ của HIV trong suốt gần 100 năm, mặc cho sự phát triển như vũ bão của y học?
Chiến lược cực kỳ tinh ranh của virus
ADN của HIV sẽ được dùng bởi chính tế bào chủ để tổng hợp những thành phần của virus.
HIV gây ra AIDS bằng phương pháp chọn kí sinh, sau đó phá hủy một loại tế bào bạch cầu rất quan trọng của cơ thể là tế bào lympho T.
Đây là tế bào đóng vai trò nhận diện những tác nhân ngoại lai nguy hiểm, và đưa ra đáp ứng miễn dịch thích hợp. Việc chúng bị hủy hoại dần tại HIV khiến cho cơ thể mất đi khả năng tự bảo vệ với các loại vi khuẩn và vi rút khác. Sau cùng người bệnh sẽ chết bởi nhiễm các bệnh lý điều kiện mà vốn dĩ chẳng mấy nguy hại tại người thường.
HIV thuộc nhóm retrovirus, có nghĩa ARN của chúng được phiên mã ngược thành ADN và tích hợp vào gene của tế bào chủ. Sau đó, ADN của HIV sẽ được sử dụng do chính tế bào chủ để tổng hợp các thành phần của vi rút. Cuối cùng, tế bào chủ bị phá vỡ để những virus mới tạo thành được phóng thích, chu trình lây lan lại tiếp tục.
Luôn có một phần nhỏ tế bào T chứa thông tin truyền của HIV, nhưng không phát tác ngay.
Với một người nhiễm HIV không được chữa trị thì trung bình có đến một tỷ tế bào T bị HIV giết chết mỗi ngày, với thời kỳ trung bình từ khi tế bào bị nhiễm cho tới khi chết là từ 1-2 ngày.
Tuy nhiên không chỉ đơn giản có vậy...
Hiện tượng HIV chỉ xâm nhiễm và phá hủy tế bào T, thì chúng ta đơn giản chỉ cần tìm kỹ thuật nhận thấy những tế bào có dấu hiệu căn bệnh và tiêu diệt chúng trước khi vi rút kịp phát tán.
Thế nhưng khá tiếc, điều này là không khả năng - hoặc chưa khả năng. Luôn có một phần nhỏ tế bào T chứa thông tin truyền của HIV, nhưng không phát tác ngay. ADN của virus trong chúng - gọi là provirus - tồn tại tại trạng thái "im lặng", không tạo thêm bất cứ ARN hay vi rút mới nào. Chính vì thế, dấu hiệu của những tế bào T nhiễm bệnh này không có gì khác so với tế bào thông thường.
Tế bào T có provirus vẫn hoàn toàn bình thường cho đến khi HIV "thức giấc".
Những thuốc kháng retrovirus tình trạng được chữa bệnh liên kết đúng có khả năng ngăn sự lây truyền HIV sang những tế bào mới. Thế nhưng chúng không thể xuất hiện và tác động tới những tế bào căn bệnh tiềm ẩn. Bệnh nhân khi được áp dụng những loại thuốc này có khả năng ngăn chặn quá trình xuất phát AIDS và có một đời sống bình thường. Nhưng, họ sẽ phải duy trì việc sử dụng thuốc, do thực tế họ vẫn nhiễm HIV dạng ẩn.
Hiện tượng việc chữa bệnh bị gián đoạn thì vi rút HIV chắc chắn sẽ thức giấc, và căn bệnh sẽ chuyển biến trở lại như trước thời điểm được sử dụng thuốc.
Một điểm đặc biệt khiến cho HIV có khả năng tồn tại trong thời gian khá dài, đó là bởi các tế bào T còn có chức năng "nhớ". Sau khi phân chia ra để đối phó với tác nhân tạo nên bệnh lý mới, thì luôn có một lượng tế bào T có khả năng ghi nhớ thông tin mầm nhóm bệnh được lưu giữ. Nhờ vậy mà khi thân thể bị nhiễm lại tác nhân đó, các tế bào "nhớ" sẽ hoạt động ngay lập tức nhằm dập tắt mối đe dọa.
Một điểm nhất là khiến cho HIV có khả năng tồn ở trong thời gian khá dài, đó là tại các tế bào T còn có chức năng "nhớ".
Các tế bào "nhớ" có khả năng tồn tại hàng chục năm trong cá thể người, nhưng khổ nỗi các tế bào chứa provirus cũng thế. Tại hoạt động không khác gì tế bào T thường, chúng vẫn tham gia vào hệ thống miễn dịch và cũng được lưu trữ. Rồi khi vô tình một mầm bệnh cũ nào đó tấn công, các tế bào này nhanh chóng nhân bản, vô tình làm tăng luôn lượng gen HIV trong thân thể.
Tới lúc vi rút thức giấc thì số lượng của chúng đã được sinh sôi một biện pháp hoàn hảo, đủ để nhóm bệnh phát tác mạnh rồi.
Và các tia sáng phía cuối con đường
Cho tới nay, chúng ta mới ghi nhận một người được coi là đã điều trị khỏi HIV là Timothy Ray Brown.
Bí ẩn về "bệnh nhân Berlin" - bệnh nhân HIV đầu tiên trong lịch sử được trị khỏi sắp được giải mã
Thực ra, ông được chữa trị một bệnh khác là ung thư bạch cầu (leukemia) bằng biện pháp hủy đi các tế bào miễn dịch của điển hình mình, và sau đó được ghép tủy xương từ một người hiến tặng có gen kháng HIV tự nhiên. Hơn 8 năm sau, ông đã được ghi nhận là không có sự xuất hiện trở lại của vi rút HIV.
Người bệnh Timothy Ray Brown.
Đây có thể được xem như một "tia sáng" trong công cuộc điều trị HIV, nhưng thực ra cách trị bệnh trên vẫn đầy may rủi và chưa nguy cơ áp dụng đại trà.
Một số nỗ lực chữa bệnh tương tự sau đó tại những bệnh nhân khác đã thất bại. Một số người hoặc đã tử vong, hoặc đã tái phát HIV trở lại. Đồng thời, cần lưu ý việc không phát hiện thấy HIV dù qua thời gian dài vẫn không đồng nghĩa cơ thể đã hoàn toàn sạch bệnh lý, do nguy cơ tồn tại ẩn của loại virus này.
Dẫu vậy, nếu của Brown vẫn đáng được đánh giá là một bước chuyển mới trong công cuộc phòng chống HIV. Và với sự ra đời ngày càng phần lớn những liệu pháp tân tiến hơn trong y học, chúng ta có quyền hy vọng rồi đại dịch HIV/AIDS sẽ được nhân loại chung tay đẩy lùi.
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét